Thơ Nguyễn Sưởng Nguyễn_Sưởng

Giới thiệu 2 bài:

Phiên âm Hán-Việt:Bạch Đằng giangKinh quán sơn hà thảo mộc xuân,Hải triều húng húng thạch lân tuân.Thùy tri vạn cổ Trùng Hưng nghiệp,Bán tại quan hà bán tại nhân. Dịch nghĩa:Sông Bạch ĐằngMồ chôn quân thù [3] cao như núi, cây cỏ xanh tươi,Nước thuỷ triều ngoài biển ầm ầm, đá núi lởm chởm.Mấy ai biết sự nghiệp muôn thuở đời Trùng Hưng,[4]Một nửa nhờ địa thế núi sông, một nửa do con người. Bản dịch thơ của bài thơ Bạch Đằng giang" đã được đưa vào phần bài tập của SGK Ngữ văn 10, tập II để so sánh với đoạn cuối của bài "Bạch Đằng giang phú"- Trương Hán Siêu.Phiên âm Hán-Việt:Cúc Đường đề Khai Nguyên quán Tự Lạc tiên sinh kiều cư, nhân thứ kỳ vậnThế duyên tiêu khước ngoại thê nhi,Tục khách ninh dung thoản trúc phi.Thạch đỉnh phanh trà tăng cộng thoại,Tùng đàn bộ nguyệt hạc đồng quy.Đào thi tĩnh ngoạn u nhàn tưởng,Hy hoặch tiên tham động tĩnh ky.Đối tháp tạm thời bồi tiếu ngữ,Kinh trần hồi thủ ngộ tiền phi.Dịch nghĩaCúc Đường đề thơ ở quán Khai Nguyên nơi trọ của tiên sinh Tự Lạc, nhân hoạ vầnDuyên nghiệp ở đời bỏ hết, gác chuyện vợ con ra ngoài,Đâu để khách trần tục đến gõ cửa tre.Nấu trà trong vạc đá, trò chuyện cùng sư,Dạo nguyệt nơi đàn thông, cùng về với hạc.Lặng lẽ thưởng thức ý tưởng u nhân trong thơ họ Đào,Trước hết thăm dò cơ động tĩnh trong nét vạch của vua Hy.Giường đặt đối diện nhau, tạm nói cười tiếp chuyện,Ngoái nhìn bụi kinh kỳ, tỉnh ngộ về những sai trái trước đây.